Cửa khẩu này thuộc bản Nà Cài, xã Chiềng On, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La, thông với cửa khẩu Sốp Đung, bản Sop Dung, xã Xiengkhor, tỉnh Houaphan (Hủa Phăn) Lào.
Năm 1989 lần đầu tiên tôi qua đây, ngày đó đây chỉ là đồn biên phòng rất nhỏ bé nằm phía cuối con đường 104 xấu kinh khủng khiếp, xung quanh ba bề bốn bên chỉ rừng là rừng, ban đêm nghe xung quanh cơ man là tiếng thú, chim, dế, và ốc, có một loại ốc kêu như tiếng huýt sáo gió ở những khe nước nơi này.
Ngày đó chúng tôi đi bộ từ Nà Mèo qua Phiêng Khoài sang Bản Khuông theo đường 103, đường này khi đó mưa, muốn đi bằng cơ giới thì chỉ có thể cưỡi xe tăng thôi, còn tất cả các loại xe khác cảm phiền, đường khô thì chỉ một loại Wat chỉ huy, hai cầu (com măng ca) hoặc Gaz66 mới có đủ khả năng mò mẫm, chúng tôi đứng trên thùng xe tay bám chặt thành gỗ, xe tháo bạt sẵn có lật còn nhảy xuống đường, đường xóc kinh khủng khiếp chúng tôi bị quăng quật như những mớ giẻ rách trên xe, xuống xe ai cũng nhăn nhó hay đi cà nhắc…
Ngày đó ở Bản Khuông sát đất Lào tôi gặp một vài câu chuyện lạ này xin kể cho mọi người nghe.
Khi đó tầm tháng 10 âm lịch, trời lạnh cắt da, mưa phùn rả rích, ngày xưa mùa đông có vẻ như lạnh hơn bây giờ nhiều lắm, hay lúc đó chúng tôi thiếu quần áo mặc thì thấy vậy, khi dừng lại vào nhà một anh dân quân tên là Nọong để nghỉ, chúng tôi dừng ở đây mấy ngày.
Đó là một căn nhà sàn cũ nhưng còn khá tốt ở giữa rừng, trước mặt có một con suối nhỏ mùa mưa nó to như con sông vậy.
Một đêm trăng rất sáng và trời rét ngọt, chúng tôi ăn uống xong ngồi quây bên bếp lửa nướng những củ sắn ăn và cùng uống trà, hút thuốc tán chuyện với nhau, lúc đó chỉ chừng 9 giờ tối nhưng ở nơi vắng vẻ này mọi thứ cô tịch và toàn rừng tưởng chừng như khuya lắm rồi.
Chúng tôi có 5 người thêm anh Nọong và cậu con trai lớn của anh nữa là 7 cùng ngồi với nhau trên sàn phía trước ngôi nhà, quanh bếp lửa, trăng sáng vằng vặc không một gợn mây soi rõ mọi thứ xung quanh và cả cái sân phía dưới sàn nhà.
Bỗng nhiên anh Hiên kêu, ơ kìa… chúng tôi thấy anh ngây người chỉ, tất cả cùng ngoái cổ theo tay anh chỉ, từ cuối cái sân nhỏ bên dưới sàn nhà anh, có một cái bóng nhỏ nhỏ trông rất lạ lùng, tôi nhìn kỹ hóa ra là con chó nhà anh, lạ và kinh hãi là nó chống một cái cây nhỏ và đi y như con người bà con ạ, xin thề lúc đó tất cả chúng tôi đều nhìn thấy, và không hề say hay quáng gà hoa mắt, chỉ anh Hiên, anh K và anh chủ nhà uống rượu, còn lại mấy anh em không ai uống cả.
Giữa sân trăng sáng vằng vặc, con chó bước đi khụng khiệng liêu xiêu, sau đó bước đàng hoàng hệt như một người già đi, lưng hơi còng còng, hai chân trước của nó ôm lấy cái nhánh cây khá to bằng hai ngón tay mà anh Nọong dùng để chống cành của cái cây cam, cho khỏi ngả xuống, nó cứ đi vậy lòng vòng quanh sân, thỉnh thoảng một tay nó buông thõng như người và có lúc nó vắt qua sau lưng như kiểu con người hay làm, vắt tay sau mông vậy…
Chúng tôi quá bất ngờ chỉ biết ngồi ngây người nhìn những gì đang xảy ra ngay trước mắt, ngày nhỏ tôi thường nghe nhiều người kể về câu chuyện có những con chó màu trắng với lỗ mũi đỏ thường nửa đêm đội nón chống gậy và leo lên đi trên nóc nhà, nói thật là nghe kể nhiều nhưng chưa bao giờ tôi tận mắt nhìn thấy cho tới lúc đó, nhưng khác là người ta thường kể là con chó màu trắng và chỉ một người nhìn thấy, còn đây là một con chó màu vàng nhat lỗ mũi nó cũng không đỏ, nó không đội nón và leo lên nóc nhà, mà chỉ đi quanh sân, nhìn như một người bị què chân đi cà lết cà lết vậy, anh Hiên cùng anh K. Vội tụt xuống dưới đất chỗ sân để xem cho kỹ, thấy vậy tôi cũng tụt xuống theo xem… con chó vẫn đi lững thững dưới trăng, anh Hiên châm một điếu thuốc lá để xuống đất, con chó đi tới gần và nó cúi xuống… lẩy bẩy nhặt điếu thuốc lên và hút, xin thề là tôi không bị ảo giác tôi thấy nó ngậm điếu thuốc rê sâu kèn to tướng của anh Hiên rồi nhả khói xong co vai ho khục khục và lại loạng choạng đi tiếp, hai tai cúp ra phía sau mắt như long lên nhìn rất ma quái, lính trinh sát quân báo thì không có khái niệm sợ “ma” hay bóng đêm, mà thú thực lúc đó chúng tôi nhìn nhau hoang mang thực sự, con chó cứ đi vậy thêm lúc nữa rồi nó đi thẳng ra ngoài rừng mất hút và tru lên một hồi ghê rợn.
Anh Nọong như bừng tỉnh quáng quàng vớ cây đèn ba pin và khẩu súng CKC lật đật chạy xuống thang, mấy anh em bên trên cũng chạy xuống theo, anh quát thằng con rồi nhờ anh T và thằng L trông nó, còn lại chúng tôi chạy theo anh theo hướng con chó đi… soi đèn tìm mãi nhưng không thấy nó đâu cả.
Khi quay về tôi thấy anh Nọong luôn mồm lẩm bẩm “nó” đến đấy, “nó” quay lại rồi… chẳng ai hiểu anh nói “nó” ở đây là thứ gì, chỉ thấy anh nhờ chúng tôi vác những cây củi tới gầm sàn nhà và đốt lên một đống lửa to, anh ngồi đó ôm súng mặt căng thẳng nhìn ngó lung tung, báo hại chúng tôi cũng phải thức cùng anh mà không hiểu đầu đuôi ra sao cả.
Tới sáng hôm sau, khi ăn uống buổi sáng xong xuôi, mấy anh lớn xúm vào hỏi anh đêm qua có chuyện gì, lúc đó anh mới chậm rãi kể giọng nho nhỏ, đó là sự hiện diện của một người đàn bà ma quái đã chết từ lâu ở nơi này.
Đó là một bà già tên là Xín, bà này là người chuyên làm nghề cúng bái kiểu thầy mo, thầy then gì đó của người dân tộc ít người, bà ở đây từ lâu lắm rồi, bà không có chồng có con gì, chẳng ai biết gốc tích của bà… rồi một đám cháy nương đã thiêu rụi căn nhà của bà cùng với bà già đó, khi đó bà ấy đã già và không thoát ra khỏi đám cháy nổi.
Ngôi nhà cũ bà ấy không còn gì, cái nền đất đó cũng không còn dấu tích vì chuyện đã xảy ra tới cả chục năm về trước, trước khi chúng tôi ghé qua đó. Cái nền nhà chỉ còn là một rừng cây rậm rạp, tôi và anh T có đến tận nơi quanh quẩn nhòm ngó… chẳng còn dấu tích gì chỉ còn sót lại một cây trẩu to cổ thụ, lá to tán rộng, xung quanh âm u và rậm rạp, chỉ còn lờ mờ dấu vết những hòn đá giống như những bậc để đi xuống con suối trước mặt.
Anh Nọong kể lại rằng, theo như những người già kể thì bà Xín là người Lào nhưng gốc Hoa gì đó… bà chạy loạn phỉ sang vùng này của Việt Nam sinh sống, bà có thờ và nuôi ma gì đó tựa như ma lai, ma gà… mà người ta thường kể, sau khi bà bị chết cháy thì người đi rừng rẫy đi ngang qua khu đất bà ở xưa thỉnh thoảng họ vẫn thấy bà ngồi ở đó vào buôi chiều nhập nhoạng tối, mặc một cái áo bông màu tía loại áo bông cúc hình hoa hồi mà những bà cụ già ngày xưa hay mặc, đầu bà chít khăn sọc, khuôn mặt dài và trắng bệch, hai con mắt màu đỏ rất to đảo qua đảo lại, miệng nhai nhai như kiểu nhai trầu, mặc dù khi sống bà không ăn trầu.
Có lần người ở bản đi chém cá ban đêm ở suối, qua ánh đuốc sáng thấy một bà già ngồi trên dải đá to giữa suối, quay mặt đi chỗ khác nhưng tay chìa ra xin cá của họ với giọng the thé… dần dần dân bản không dám đi qua đó nữa.
Về sau, cứ mỗi khi bà này hiện về là những con chó thường đi bằng hai chân rồi chống cây lòm khòm trông y hệt một bà già, có người nhìn thấy nó còn đội khăn mỏ quạ đi giữa đêm trăng bằng hai chân. Và cứ mỗi lần con chó đi như vậy là lợn hay dê, gà nhỏ nhỏ lại bị lăn ra chết bí ẩn trong đêm với những vết cắn kỳ lạ, người ta thường chống lại việc đó bằng cách đốt lửa dưới gầm sàn chỗ gia súc được nhốt, hoặc nổ súng kíp chỉ thiên… ngày đó nhà sàn người ở trên họ thường nhốt gia súc bên dưới sàn. Đêm đó thì nhà anh Nọong không bị mất gia súc, nhưng một nhà cùng ở bản cách đó chừng 3 – 400m thì bị chết gần hết đàn lợn con mới đẻ mấy ngày, chủ nhà phải làm lễ cúng ma. Tôi thì không thấy tận mắt bà già đó dù có mò mẫm tới tận nơi trước đó bà cụ già đó ở, nhưng tôi thấy tận mắt con chó đi bằng hai chân, một câu chuyện mà tôi thường nghe người ta kể như là truyền thuyết hoang đường không đáng tin lắm… vậy mà tôi thấy nó ngay trước mắt mình, và chỉ một lần duy nhất cho tới tận bây giờ tôi không gặp thêm lần nào nữa, nhưng vẫn nhớ như in hình ảnh đó, nếu như ở nơi phố phường hay đông người thì có lẽ không có nhiều ấn tượng, nhưng khi gặp ở một nơi rừng vắng người thưa vằng vặc trăng khuya xung quanh vắng lặng thật sự là nổi hết gai ốc.
Dân ở đó ngày ấy nghèo và khổ sở vô cùng, tôi nhớ mãi tới đầu Nà Cài, buổi tối khi đi qua một ngôi nhà sàn thấy le lói ánh lửa, những nhà khác họ tắt lửa và đi ngủ từ chập tối, phần vì lạnh phần vì sợ phỉ bên Lào qua cướp bóc, nhưng ngôi nhà sàn này vẫn có ánh lửa, anh em tôi tò mò tới gần xem, một cảnh tượng thật thương tâm, hình ảnh đó dưới trời mưa rét đêm đông khiến anh em tôi cùng khóc, riêng tôi thì không thể quên được.
Dưới gầm một căn nhà sàn xiêu vẹo chống hoác có một đống lửa có hai đứa trẻ, đứa chị chừng 8 đến 10 tuổi ôm một đứa em mặc cái áo rách bươm và không có quần, đứa chị cũng chỉ có manh áo mỏng đang run lẩy bẩy ngồi nướng cái bắp ngô, dưới chân chúng là một con chó đang nằm rúc vào cạnh đống lửa, khi bất ngờ thấy chúng tôi chúng hoảng hốt lắm, khi hỏi cha mẹ đâu chúng chỉ biết lắc đầu vì có lẽ không hiểu tiếng, chúng tôi ngồi xuống anh T tháo bao tượng gạo cho chúng hết chỗ gạo đang mang và lấy thêm 1 nửa ở bao tượng tôi, tầm hơn chục kg, tôi cho chúng hết hai bịch lương khô mỗi bịch 4 thanh của mình, tôi cùng anh Hiên cởi hai cái áo bông đang mặc cho chúng rồi đi tiếp… anh Hiên vừa đi vừa khóc thành tiếng, chúng tôi đều nghẹn ngào nước mắt lẫn nước mưa lạnh buốt…
Tôi không sợ ma quỷ, không sợ cảnh chết chóc, nhưng rất sợ những hình ảnh những đứa trẻ đói khát rét mướt nghèo khổ ở những vùng cao giữa mùa đông lạnh giá… những hình ảnh đó thật sự ám ảnh tôi khiến tôi ăn không còn thấy ngon miệng và ngủ không thấy ngon giấc nữa… day dứt vì chỉ biết nhìn hay giúp đỡ chúng được tý chút chứ không thể làm gì hơn, thật xót xa.
Tôi và anh Hiên cho chúng cả cái áo và cái chăn trấn thủ mỏng teo của lính, còn lại lấy hết áo dài ra mặc vào người rồi quấn thêm cả tấm vải mưa nữa mà vẫn run cầm cập vì lạnh.
Sau đó ba tháng rưỡi thì anh Hiên hy sinh, anh quê ở Đọ xá, Duy Tiên, Hà Nam Ninh, khi anh mất cái áo anh đang mặc rách nát, nhưng anh không bị lạnh vì lúc đó chúng tôi qua Campuchia rồi, nơi đó nóng khủng khiếp, tôi thì may mắn hơn khi chỉ bị một viên AR15 hết tầm vào khoeo chân trái, viên đạn không làm đứt gân chân tôi cũng không xuyên qua, mà nằm lại, nó gây áp xe, không xử lý nhanh có thể hoại tử, cuối cùng tôi phải nhờ anh em đè tôi ra bịt chặt miệng, anh T lấy dao găm chích và lôi viên đạn ra rồi xử lý vết thương, lạ là không hề có một chút gì gọi là gây tê nhưng tôi không cảm thấy quá đau đớn.
Tôi đã không bị mất cái chân, và bình phục lại rất nhanh, cái sẹo và cái đầu đạn kỷ niệm tôi vẫn còn giữ.
Phần 1
Phần 2
Phần 3
Phần 4
Phần 5
Phần 6
Phần 7
Phần 8
Phần 9
Phần 10
Phần 11
Phần 12
Phần 13
Phần 14
Phần 15
Phần 16
Phần 17
Phần 18
Phần 19
Phần 20
Phần 21
Phần 22
Phần 23
Phần 24
Phần 25
Phần 26
Phần 27
Phần 28
Phần 29
Phần 30
Phần 31
Phần 32
Phần 33
Phần 34
Phần 35
Phần 36
Phần 37
Phần 38
Phần 39
Phần 40
Phần 41
Phần 42
Phần 43
Phần 44
Phần 45
Phần 46
Phần 47
Phần 48
Phần 49
Phần 50
Phần 51
Phần 52
Phần 53
Phần 54
Phần 55
Phần 56
Phần 57
Phần 58
Phần 59
Phần 60
Phần 61
Phần 62
Phần 63
Phần 64
Phần 65
Phần 66
Phần 67
Phần 68
Phần 69
Phần 70
Phần 71
Phần 72
Phần 73