Tôi lần theo đám thợ rừng, trôi dạt về Cao Thạch. Vì kiếm miếng cơm sinh sống mà chui vào xó xỉnh nơi góc rừng này, không mong gì ngóc đầu lên nổi. Cái xóm đìu hiu hẻo lánh đến não lòng. Thế nhưng tôi ở lại đã hơn một năm. Đời yên mà cô quạnh lắm. Nơi đây có chừng vài mươi mái nhà nằm đơn độc xa nhau, im lìm vắng vẻ. Nghe nói, ngày trước Cao Thạch cũng không đến nỗi tiêu điều đến thế, nhưng chiến tranh cứ đẩy con người bỏ xóm đi xa dần. Sau chiến tranh, chẳng ai còn nghĩ đến chuyện quay về chốn cũ, để chiều chiều ngồi bó gối, ngó lên ngọn rừng, nghe tiếng chim kêu vượn hú.
Hồi tôi mới tới đây, Bảy Súp nói:
– Chú mày đừng ngại, chuyện gì rồi cũng sẽ quen đi. Việc đo đạc, tính giá cả, chỉ cần biết được bốn phép toán cộng trừ nhân chia là đủ. Còn công việc sau đó, hơi vất vả một chút. Anh sẽ chỉ cách cho chú mày làm. Đóng cọc, vác củi sắp vào từng thước khối… Tiền bạc không có dư, nhưng cũng sống được qua bữa qua ngày.
Thế đấy. Tiền bạc không có dư, nhưng cũng sống được qua ngày. Tôi phụ việc với Bảy Súp, làm nơi bãi đất ở cuối xóm, giáp với bìa rừng. Gỗ súc và củi từ trong rừng đem ra chất đống nơi đây, chờ chuyển đi các nơi xa bằng xe be, và đám thợ rừng thường gọi bãi này là Bến Gỗ.
Bến Gỗ nằm trong địa phận Cao Thạch, nhưng trong những lời lẽ giao tiếp làm ăn hàng ngày, người ta nói riết thành ra thói quen luôn là Bến Gỗ. Càng về sau, nhắc đến Cao Thạch không còn mấy người biết nữa. Mọi sinh hoạt nhộn nhịp của Cao Thạch, chỉ diễn ra tại Bến Gỗ, chừng vài tiếng đồng hồ vào giữa trưa, khi bọn thợ từ rừng ra, lái gỗ từ khắp các nơi khác tới. Lăn xăn đo đạc, chào và trả giá. Xuống củi từ những xe bò xe trâu, hoặc cẩu những thanh gỗ súc lên xe be xong xuôi, chia tay rồi đám thợ xách cưa trở ngược vào rừng. Và lái gỗ cùng những chiếc xe be rời Bến Gỗ bằng con đường đất ngoằn ngoèo dài hun hun hút, dưới những tán lá rậm hai bên đường.
Bảy Súp sống ở đây trên chục năm trời, khi đó Cao Thạch chỉ có một một tốp nhỏ dân giang hồ tứ chiến lưu lạc về đây. Nghe đâu trước khi Bảy Súp là dân anh chị ở bến xe Chợ Lớn, trong một lần lỡ tay đánh chết một thằng đàn em của một tay đầu sỏ cộm cán khác nên đã bị truy sát. Lão buộc phải rời bỏ đất Sài Gòn rồi về tận chốn này.
Còn tôi là kẻ thất cơ lỡ vận phải vào Cao Thạch kiếm sống đã đành. Có một thành phần khác, không ai ngờ, cũng vào đây. Đó là những cô đã một thời đem thân xác mình phục vụ cho đám khách mua hoa nơi các phố thị đông người. Nay nhan sắc đã tàn phai, không còn đủ sức bon chen với đám đàn em mới vô nghề. Họ quay ra đón khách dọc đường, lưu động theo các chuyến xe chạy đường xa, có khi còn vào tận chốn rừng sâu với bọn thợ rừng. Mỗi lần nhìn thấy các cô em tóc tai rối bời gió bụi trên chuyến xe đi đến, hoặc mặt mũi bơ phờ từ rừng trở ta, lòng tôi trắc ẩn. Có lẽ họ cũng nhìn thấy tôi là kẻ hết thời, không hơn gì “con vạc ăn sương” như họ. Cùng một nòi lưu lạc, dễ thông cảm nhau, và từ đó sinh ra cảm tình.
Buổi trưa. Tôi ngồi trốn nắng dưới bóng cây. Một cô gái sà đến, ngồi kế bên, bắt chuyện rất tự nhiên như đã quen thân tự kiếp nào:
– Em đi lưu diễn nhiều nơi, chưa thấy nơi nào buồn như nơi này.
Tôi cười vì hai tiếng “lưu diễn”, và lắc đầu nhẹ, tỏ ý chán đời, đồng cảm.
Tôi hỏi:
– Em tên gì?
– Mỹ.
– Tên thiệt của em hả?
– Không. Hồi em mới bước chân vô nghề, có thằng cha tự xưng thi sĩ, hắn thấy em dễ thương nên hay chọc em là Mỹ Mỹ. Nghe cái tên cũng hay hay, vậy là em xưng Mỹ Mỹ luôn. Không biết tại sao, khi em nói tên em là Mỹ Mỹ, có nhiều người cười nói cái tên giống của người Hoa quá. Em mới nghĩ thôi bỏ bớt một chữ Mỹ đi còn lại một chữ. Em xài tên Mỹ cho đến bây giờ.
– Sau này, nếu có ai còn cười nữa, em thêm chữ Nhân vô nữa, thành Mỹ Nhân. Người ta sẽ hết cười.
– Ôi, Mỹ Nhân là người phụ nữ đẹp phải không anh?
Tôi nhìn vu vơ lên tán lá, một con sâu róm đang cố bò có vẻ như muốn láng khỏi cái nhìn bâng quơ của tôi. Cô thò tay vào xú chiêng móc một bao thuốc lá Hoa Mai bèo nhèo, điếu thuốc móp xọp. Cô châm lửa hút vài hơi, rồi trao cho tôi.
– Hút đi, nhìn chi nhìn dữ vậy?
Tôi nói:
– Xú chiêng chứ đâu phải túi đựng đồ mà gói thuốc vào trong đó.
– Em còn nhét cả tiền nữa. Thời buổi này, bọn cướp giật đầy khắp ngoài đường. Mang túi đầm, đi õng ẹo chỉ làm mồi ngon cho tụi nó thôi.
Tôi ngó vơ vẩn ra bìa rừng. Cô nhìn tôi một lúc, lại nói:
– Năm bảy năm về trước, cặp vú em no tròn đầy đặn. Bao nhiêu thằng mê em, chỉ muốn vục mặt vào đó. Còn bây giờ thì…
Cô bỏ lửng câu nói.
Tôi hỏi:
– Bây giờ thì sao?
– Hỏi mỉa em hả?
– Không. Anh đang nghĩ đến luật đào thải phũ phàng khắc nghiệt của tạo hoá.
Cô khoát tay:
– Ối. Hơi đâu mà nghĩ luật này luật kia cho mệt. Em chỉ hận lũ đàn ông. Đàn ông là thứ mới chuộng cũ vong, là thứ phản bội, trời đánh thánh đâm.
Tôi kêu lên:
– Trời đất! Có phải vì nóng nực, làm em nổi giận bất thường? Em hận thằng nào thì chửi thằng đó. Sao bỗng dưng lại trút căm hờn vào anh?
– Em không nói anh.
– Anh không phải đàn ông sao?
– Đàn ông, nhưng em trừ anh ra.
Cô cười. Chẳng hiểu sao khi vừa bặp xong vài hơi thuốc trên môi, tôi lại buông ra một câu chọc phá.
– Hình như… có mùi của em.
– Thôi, anh lại ăn nói lung tung. Mình ra quán uống nước đá đi anh. Em bao.
Và đứng dậy, nắm tay tôi kéo đi. Đang đi, cô hỏi:
– Anh mấy tuổi?
– Bốn mươi.
– Vợ con ra sao?
Cô liếc mắt, dí ngón tay vào trán tôi.
– Đừng nói với em rằng xanh xao, mắt quầng thâm vì chơi bời trác táng quá độ. Có thằng ghẻ lác đầy mình, con vi trùng giang mai đã rúc vô tận xương tủy của nó rồi.
– Em hay bắt quàng, từ chuyện nọ xọ chuyện kia.
– Thôi, trở lại chuyện của anh. Vợ anh đâu?
– Gửi cho bà già vợ nuôi. Còn anh lo nuôi thân anh.
Cô ngó tôi, cười cười:
– Hỏi thiệt nhé, có thích em không?
– Đừng hỏi tầm phào.
– Cái mặt làm bộ sầu đời, cách nói chuyện cà tững của anh, nhiều em gái ngây thơ chịu lắm. Tụi mình kết duyên thành chồng vợ được đấy.
– Để ôm nhau chết đói hả?
– Em tình nguyện đi làm nuôi anh.
– Đi khách đem tiền về nuôi anh?
– Không. Em chán cái nghề này lắm rồi.
Chúng tôi ngồi dưới chái hiên quán Bảy Súp. Chị Bảy chủ quán mang nước đến, rồi bỏ đi ngay như muốn tránh mặt.
Cô Mỹ nhìn theo sau lưng chị Bảy, kề tai tôi, nói nhỏ:
– Em còn lạ gì con đĩ ngựa này. Nó đỏng đảnh với mấy thằng xe be ngoài chợ, ai chẳng biết.
– Thôi, chuyện người ta. Mắc mớ gì đến em.
– Hứ! Cái thứ rượng đực, còn làm ra vẻ khinh người. Khó ưa.
Cô nguýt dài. Đuôi mắt đã có dấu hiệu xếp nếp thời gian.
Cao Thạch chỉ có một quán tạp hoá duy nhất của Bảy Súp, nằm kế Bến Gỗ. Bên hông quán, che thêm cái chái dùng làm nơi bán thịt rừng, và nước đá giải khát buổi trưa cho những đám thợ thuyền sinh hoạt nơi Bến Gỗ này.
Bảy Súp thường giao quán cho vợ con trông coi. Còn anh lo chạy vòng ngoài. Vào rừng mua lại thịt tươi từ các tay săn bẫy thú, hoặc theo xe be ra chợ bổ sung thêm hàng hóa về cho vợ buôn bán. Nhiều khi công việc bề bộn, vợ anh phải thay thế ra chợ bỏ hàng. Việc này cũng mất khá nhiều thời gian, phải ở lại qua đêm, hôm sau mới có chuyến xe vào lại Cao Thạch. Vì phải ở lại qua đêm, nên chị Bảy mang nhiều tai tiếng lăng nhăng với dân xe be và lái gỗ.
Người ta xầm xì về chuyện này, nhưng Bảy Súp không hề hay biết. Trời sinh ra anh để nhìn đời theo con đường thẳng, chứ không phải để nghi ngờ dò xét ở những khúc quanh. Tôi cũng chẳng phải thằng hay tọc mạch, tò mò chuyện thiên hạ. Đi theo anh, tôi cũng học được nhiều thứ hay ho. Từ lúc anh bỏ trốn rồi phiêu bạt đến chốn này, anh càng thấm thía hiểu cuộc đời vốn luôn công bằng. Anh đã gây nên tội lỗi, phải sống kiếp chui nhủi thế này kể cũng là đáng cho anh.
Rít một hơi thuốc lá thật dài, anh ngửa mặt lên trời rồi nhả làn khói mờ mờ. Anh nhìn tôi rồi phóng mắt vào khoảng rừng thẳm trước mặt, dần hồi tưởng lại chuyện đã qua.